Cao đẳngĐại họcĐào tạo liên thôngThông tin tuyển sinh

Phan Tich Bai Dat Nuoc – Thông tin tuyển sinh đào tạo Đại học Cao đẳng

Phan Tich Bai Dat Nuoc đang là thông tin được nhiều người quan tâm tìm hiểu để lựa chọn theo học sau nhiều đợt giãn cách kéo dài do dịch. Website BzHome sẽ giới thiệu cho bạn những thông tin mới nhất chính xác nhất về Phan Tich Bai Dat Nuoc trong bài viết này nhé!

Nội dung chính

Video: [CÒN 11 NGÀY] Phân tích đoạn trích Đất Nước (Phần 1)

Bạn đang xem video [CÒN 11 NGÀY] Phân tích đoạn trích Đất Nước (Phần 1) mới nhất trong danh sách Thông tin tuyển sinh được cập nhật từ kênh CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG từ ngày 2023-06-17 với mô tả như dưới đây.

📚 Bài giảng thuộc chuyên mục livestream hỗ trợ ĐỒNG HÀNH CÙNG SỸ TỬ 2K5 trên Facebook fanpage “CÔ TRẦN THUỲ DƯƠNG” và Youtube channel “Cô Trần Thùy Dương”.

💌 Inbox fanpage “CÔ TRẦN THUỲ DƯƠNG” để được tư vấn và hướng dẫn đăng ký học cũng như đặt mua các đầu sách luyện thi 2024 từ Cô Trần Thùy Dương.
————————————–
CÔ TRẦN THUỲ DƯƠNG
💖 Phong cách viết văn thiên về Lí luận và bình sâu.
💖 Tư duy sáng tạo, cách nhìn nhận mới mẻ sâu sắc trong NLXH.
💖Nâng cao kỹ năng viết và cải thiện văn phong cho học sinh.

Một số thông tin dưới đây về Phan Tich Bai Dat Nuoc:

Dàn ý phân tích bài thơ Đất nước

I. Mở bài:

– Sơ lược về nền văn học 1945-1975, giới thiệu tác phẩm.

II. Thân bài:

a. Đất Nước có từ bao giờ?

– Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa.

– Gợi ra những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết.

  • Sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng.
  • Truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

– Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục.

  • “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa.
  • “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng.
  • Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa,…

b. Đất nước là gì?

– Về không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi, thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng lại mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’, “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương.

– Về thời gian lịch sử:

  • Quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông.
  • Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống.
  • Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước.

c. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân:

– Trên phương diện không gian địa lý:

– Cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước.

– Gợi nhắc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

– Nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta.

– Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương.

=> Khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.

* Phương diện thời gian lịch sử:

– Suốt 4000 năm lịch sử, nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ chính là những người làm ra Đất Nước.

– Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần.

* Trên bình diện văn hóa:

– Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung.

– “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.

– “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ đó thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường.

-“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.

III. Kết bài:

– Tổng kết giá trị nội dung nghệ thuật.

………..

Xem thêm: Dàn ý bài thơ Đất nước

Dàn ý bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

  • Sơ đồ tư duy Đất nước
  • Dàn ý cảm nhận bài thơ Đất nước (2 Mẫu)
  • Dàn ý phân tích bài thơ Đất nước (4 Mẫu)
  • Dàn ý nét mới trong cảm nhận về Đất nước (2 Mẫu)
  • Dàn ý phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước (3 Mẫu)
  • Dàn ý phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân (3 Mẫu)

Sơ đồ tư duy Đất nước

Dàn ý cảm nhận bài thơ Đất nước

Mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích Đất Nước.

2. Thân bài

a. Đất Nước có từ bao giờ?

– Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” điều này thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.

– Đất Nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam: “miếng trầu của bà”, “búi tóc của mẹ”…

– Đất Nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

– Nhận xét: Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

b. Đất Nước là gì?

– Về phương diện không gian địa lí:

  • Tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc.
  • Đất nước là không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian sinh hoạt của mỗi con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn với kỉ niệm tình yêu lứa đôi: “nơi em đánh rơi … thương thầm”.
  • Đất nước là không gian bao la trù phú, không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng … dân mình đoàn tụ”.

– Nhìn đất nước được nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương lai:

  • Trong quá khứ đất nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết, huyền thoại: “Đất là nơi chim về … trong bọc trứng”
  • Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.
  • Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.

– Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ”, đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước.

– Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.

c. Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân

– Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:

  • Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”
  • Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
  • Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”

– Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:

  • Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.
  • Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.

– Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”… từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.

– Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân Dân”.

– Nhận xét:

  • Về nội dung: Đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước trên nhiều bình diện: văn hóa, lịch sử, địa lí dựa trên tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân dân”.
  • Về nghệ thuật: Sử dụng đa dạng và sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc.

3. Kết bài

Cảm nhận riêng về đoạn trích Đất Nước.

Mẫu 2

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: ông thuộc thế hệ nhà thơ chống Mĩ cứu nước, thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và chất triết lí, suy tư của người trí thức về đất nước, con người.

– Giới thiệu về bài thơ Đất nước: được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

II. Thân bài

1. Đất nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời gian

a. Đất nước có từ bao giờ? (lí giải cội nguồn của đất nước) (9 câu đầu)

– Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.

– Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, “Thương hau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.

– Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

– Nhận xét: Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

b. Định nghĩa về đất nước (28 câu thơ tiếp theo)

– Về phương diện không gian địa lí:

  • Tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc.
  • Đất nước là không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian sinh hoạt của mỗi con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn với kỉ niệm tình yêu lứa đôi: “nơi em đánh rơi … thương thầm”.
  • Đất nước là không gian bao la trù phú, không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng … dân mình đoàn tụ”.

– Nhìn đất nước được nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương lai:

  • Trong quá khứ đất nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết, huyền thoại: “Đất là nơi chim về … trong bọc trứng”
  • Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giưa cái riêng và cái chung.
  • Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.

– Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ”, đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước.

– Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.

2. Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận về đất nước: đất nước của nhân dân

– Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:

  • Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”
  • Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
  • Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”

– Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:

  • Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.
  • Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.

– Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”, … từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.

– Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước.

– Nhận xét:

  • Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước trên nhiều bình diện: văn hóa, lịch sử, địa lí dựa trên tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân dân”.
  • Về nghệ thuật: sử dụng đa dạng và sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc.

III. Kết bài

– Khẳng định lại giá trị của đoạn trích: đoạn trích đã nhấn mạnh tư tưởng “đất nước của nhân dân”, thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả, đánh thức tinh thần yêu nước trong mỗi con người.

– Nêu cảm nhận riêng về đoạn trích đất nước và có liên hệ thực tiễn đến trách nhiệm của thế hệ hôm nay với đất nước.

Phân tích Đoạn 1 bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Dàn ý phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

– Giới thiệu đoạn trích

II. Thân bài:

a. Luận điểm 1: Đất nước có từ bao giờ?

– Câu thơ đầu tiên chính là câu trả lời cho câu hỏi ấy:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Đất Nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi con người, ở trong mỗi con người từ khi phôi thai. Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”

– Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống đời thường của mỗi con người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” à gợi những bài học về đạo lí làm người qua các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình.

b. Luận điểm 2: Quá trình hình thành đất nước?

– Bắt đầu với phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà thân thuộc, gợi câu chuyện về sự tích trầu cau, nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung.

– Hình ảnh “cây tre” còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng năng, chịu thương, chịu khó. “Lớn lên” nghĩa là nói quá trình trưởng thành của Đất Nước, nói lớn lên trong chiến tranh nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, bền bỉ.

– Tập quán bới tóc sau đầu để chú tâm làm việc, gợi câu ca dao bình trị dạt dào thương nhớ. Nhắc nhở về tình cảm vợ cồng sắc son, sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.

– Tái hiện nền văn hóa nước ta chỉ bằng một câu thơ đơn sơ nhưng đầy dụng ý:“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng cách ngắt nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, cách ăn cách ở trong sinh hoạt.

– Nguyễn Khoa Điềm thâu tóm tất cả bằng một tư tưởng duy nhất: “Đất Nước có từ ngày đó…”. Dấu “…” cuối câu chính là biện pháp tu từ im lặng, lời dẫu hết nhưng ý vẫn còn, vẫn nung nấu và sục sôi.

=>Đất nước được hình thành gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán cảu người Việt Nam, gắn liền với đời sóng gia đình. Những gì làm nên Đất Nước cũng đã kết tinh thành linh ồn dân tộc. Đất Nước vì thế hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha.

III. Kết bài:

– Khái quát vấn đề

I. Hướng dẫn phân tích bài Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm)

Đề bài: Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

1. Phân tích yêu cầu đề bài

– Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Đất nước.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các câu văn, từ ngữ, chi tiết, hình ảnh… tiêu biểu trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

– Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

2. Hệ thống luận điểm bài Đất nước

Luận điểm 1: Cảm nhận về đất nước từ nhiều phương diện: lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời gian.

Luận điểm 2: Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân dân.

>>> Tham khảo lại nội dung hướng dẫn soạn bài Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm

II. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm)

1. Mở bài phân tích Đất nước

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp nhà thơ lớn lên trong những ngày hòa bình và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ.

+ Bài thơ Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, thức tỉnh thanh niên, tuổi trẻ thành thị miền Nam xuống đường đấu tranh.

Tham khảo mẫu mở bài

Nhà thơ người Nga Ê-xê-nhin từng viết:

“Nếu thiên thần đồng thanh lên tiếng gọi:

– Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!

Tôi sẽ nói: – Thiên đường tôi chẳng lấy

Trao cho tôi Tổ quốc yêu thương!”

Hai tiếng Tổ quốc chẳng biết tự bao giờ luôn luôn trang trọng và thiêng liêng đến thế. Đề tài về quê hương đất nước luôn hấp dẫn và khơi gợi trong trái tim của biết bao nhà văn, nhà thơ. Thi ca tìm đến một nghệ sĩ tiêu biểu của thời kì:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

Không ai khác đó là Nguyễn Khoa Điềm – thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định tên tuổi của mình trên diễn đàn thơ ca Việt Nam với phong cách thơ chính là trữ tình – chính luận với đoạn trích Đất nước.

2. Thân bài phân tích Đất nước

Luận điểm 1: Cảm nhận của tác giả về đất nước từ nhiều phương diện

– Lí giải cội nguồn của đất nước (phương diện lịch sử, văn hóa dân tộc)

+ “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” -> Đất nước đã có từ lâu đời

+ “ngày xửa ngày xưa” -> gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian

+ “miếng trầu” -> tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau

+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” -> thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam

=> Đất nước gắn liền với truyền thống văn hóa, quá trình hình thành phong tục tập quán.

+ “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” -> thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.

+ “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương” -> Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất.

=> Đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa mà không hề xa xôi, trừu tượng.

Cảm nhận về đất nước qua phương diện không gian và thời gian

+ Về không gian địa lí:

  • Đất / nước“: hai yếu tố được tách riêng để suy tư một cách sâu sắc
  • nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi em đánh rơi… thương thầm” : là nơi sinh sống của mỗi người (sinh ra, lớn lên, đi học, trưởng thành và những những rung động đầu đời,…)
  • nơi con chim phượng hoàng”, “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi” : Là núi, sông, rừng, biển
  • là nơi dân mình đoàn tụ…” : là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ ()

+ Về thời gian:

  • Dài “đằng đẵng” từ xa xưa, gắn liền với truyền thuyết các dân tộc anh em cùng chung con Rồng, cháu Lạc và truyền thuyết dựng nước của vua Hùng cùng ngày giỗ Tổ.
  • Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.
  • Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa”, “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.

=> Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

* Luận điểm 2: Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân dân.

– Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:

+ Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”

+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.

+ Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”

– Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:

+ Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.

+ Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.

– Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,… từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.

– Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước.

3. Kết bài phân tích Đất nước

Khái quát giá trị nội dung bài thơ: Đất nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.

Đặc sắc nghệ thuật:

+ Sử dụng các chất liệu của văn hoá dân gian đa dạng, sáng tạo

+ Ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc

+ Thể thơ tự do hiện đại linh hoạt

+ Giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha.

– Nêu cảm nhận của em về bài thơ

– Liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay với đất nước.

     Xem thêm hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chi tiết và đầy đủ để không bỏ sót ý cho bài văn của mình.

4. Sơ đồ tư duy phân tích bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

>>> Xem thêmSơ đồ tư duy Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm

1. Dàn ý phân tích Đất nước

a. Mở bài:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp nhà thơ lớn lên trong những ngày hòa bình và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ.

+ Bài thơ Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, thức tỉnh thanh niên, tuổi trẻ thành thị miền Nam xuống đường đấu tranh.

b. Thân bài phân tích Đất nước

* Luận điểm 1: Cảm nhận của tác giả về đất nước từ nhiều phương diện

– Lí giải cội nguồn của đất nước (phương diện lịch sử, văn hoá dân tộc)

+ “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” → Đất nước đã có từ lâu đời

+ “ngày xửa ngày xưa” → gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian

+ “miếng trầu” → tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau

+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” → thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam

⇒ Đất nước gắn liền với truyền thống văn hoá, quá trình hình thành phong tục tập quán.

+ “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” → thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.

+ “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương” → Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất.

⇒ Đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa mà không hề xa xôi, trừu tượng.

– Cảm nhận về đất nước qua phương diện không gian và thời gian

+ Về không gian địa lí:

  • “Đất / nước”: hai yếu tố được tách riêng để suy tư một cách sâu sắc
  • “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi em đánh rơi… thương thầm”: là nơi sinh sống của mỗi người (sinh ra, lớn lên, đi học, trưởng thành và những những rung động đầu đời,…)
  • “nơi con chim phượng hoàng”, “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”: Là núi, sông, rừng, biển
  • “là nơi dân mình đoàn tụ…”: là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ.

+ Về thời gian:

  • Dài “đằng đẵng” từ xa xưa, gắn liền với truyền thuyết các dân tộc anh em cùng chung con Rồng, cháu Lạc và truyền thuyết dựng nước của vua Hùng cùng ngày giỗ Tổ.
  • Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao.
    Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.
  • Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa”, “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.

⇒ Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

* Luận điểm 2: Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân dân.

– Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:

+ Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”

+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.

+ Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”

– Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:

+ Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.

+ Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.

– Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,… từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.

– Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước.

c. Kết bài phân tích Đất nước

– Khái quát giá trị nội dung bài thơ: Đất nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.

– Đặc sắc nghệ thuật:

+ Sử dụng các chất liệu của văn hoá dân gian đa dạng, sáng tạo

+ Ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc

+ Thể thơ tự do hiện đại linh hoạt

+ Giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha.

– Nêu cảm nhận của em về bài thơ

– Liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay với đất nước.

PHẦN I. Hướng dẫn viết mở bài thơ Đất nước

I. Tìm hiểu chung bài thơ Đất Nước

  1. 1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc, lắng đọng thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, mang màu sắc chính luận.

  1. 2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Đất Nước

Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu, chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, về non sông, đất nước, về sứ mệnh thế hệ mình, xuống đường, đấu tranh chống đế quốc Mỹ.

* Chủ đề:

Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước, Đất Nước là sự hội tụ và kết tinh, công sức và khát vọng của nhân dân. Vẻ đẹp đất nước được phát hiện trên nhiều bình diện lịch sử, địa lý, văn hóa, truyền thống, Từ đó đánh thức trách nhiệm của mỗi người đối với việc bảo tồn và giữ gìn đất nước.

3. Sơ đồ tư duy bài Đất Nước

Xem thêm: Gia sư dạy Ngữ Văn

PHẦN II. Hướng dẫn viết phân tích thân bài bài thơ Đất nước

II. Tìm hiểu văn bản:

  1. 1. Quan niệm của nhà thơ về cội nguồn Đất Nước: (từ đầu đến “Đất Nước có từ ngày đó)

* Cảm nhận chung:

Đất nước là một cảm hứng lớn của thơ ca thời đại chống Mĩ. Với cảm xúc yêu mến, tự hào, đất nước được tác giả khám phá, cảm nhận và suy ngẫm trong một cái nhìn toàn vẹn từ nhiều bình diện: Thời gian lịch sử, không gian địa lý, chiều sâu văn hóa, phong tục, lối sống và tâm hồn dân tộc. Từ đó làm nổi bật tư tưởng lớn: Đất nước của nhân dân, khơi dậy ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước trong cuộc đấu tranh của dân tộc.

* Cảm nhận đoạn thơ:

– Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có rồi. Đất Nước có từ khi ta lớn lên, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt 4000 năm văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên. Nó có chiều sâu, cội nguồn cũng như sự hình thành phát triển bao đời nay.

– Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng ngày xửa ngày xưa mà các bà mẹ vẫn hay kể cho con cháu nghe.

– Cụm từ ngày xửa ngày xưa thật quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Mỗi câu chuyện là một bài học đạo lý dạy ta ở hiền gặp lành, biết thiện biết ác, biết sống thủy chung.

-> Ý thơ không mới, nhưng cách nói cách thể hiện có nhiều điểm mới, vừa quen vừa lạ.

Tác giả không dùng những từ ngữ, hình ảnh mỹ lệ mang tính biểu tượng thể hiện đất nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta hiểu đất nước có từ nền văn hóa dân gian, cha ông ta để lại.

Tác giả cảm nhận đất nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc.:

 Đất nước bắt đầu với miếng trầu, bây giờ bà ăn

Miếng trầu bà ăn là miếng trầu tình nghĩa trong Sự tích trầu cau khiến ta rưng nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh trầu cao trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới, trở thành Miếng trầu là đầu câu chuyện tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung.

– Đất nước được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc:

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

+ Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam, gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí chống giặc. Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ân, nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra: Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”.

Tóc mẹ thì bới sau đầu

+ Đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên dáng và thật đáng yêu.

– Đất Nước được cảm nhận trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nghĩa như gừng cay muối mặn:

 Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

+ Hình ảnh gợi nhớ đến câu thơ: Tay bưng đĩa muối, chén gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau. Dù cay đắng, gian nan nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, tha thiết.

– Đất Nước còn gắn với cách gọi tên cái kèo, cái cột khi dân ta biết làm nhà để che mưa che nắng, là quá trình lao động cần cù, vất vả của con người để mưu sinh:

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

+ Thành ngữ một nắng hai sương và các động từ liên tiếp xay, giã, giần, sàng gợi lên sự vất vả triền miên của người nông dân trên đồng ruộng. Đất Nước gắn với nền văn minh lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bảo, gắn liền với quá trình lao động vất vả để có được hạt gạo, để sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc.

– Cấu trúc câu thơ: Đất Nước đã có… , Đất Nước có… , Đất Nước bắt đầu… , Đất Nước lớn lên… , Đất Nước có từ...  cho phép ta hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên và trưởng thành của đất nước trong tâm thức con người Việt Nam bao thế hệ.

Đánh giá: Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất Nước. Giọng thơ trữ tình, câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tự nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu từ văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ. Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì bình thường, gần gũi nhất. Nó có trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung trọn vẹn về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.

  1. 2. Khái niệm Đất Nước, mối quan hệ giữa Đất Nước với mỗi cá nhân (từ Đất là nơi anh đến trường đến Làm nên Đất Nước muôn đời)
  2. a. Khái niệm Đất Nước: (Từ Đất là nơi anh đến trường đến Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ)

– Trong những năm tháng Mỹ ngụy còn chiếm đóng, các đô thị miền Nam chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng văn hóa nô dịch và phản động, việc nhận thức lại khái niệm Đất Nước và bản chất của Đất Nước là vô cùng cần thiết.

– Nguyễn Khoa Điềm không giải thích một cách chung chung, trừu tượng mà dùng cách phân tách rồi tổng hợp nhiều lần để cụ thể hóa khái niệm Đất Nước, để phát hiện ra Đất Nước trong nhiều chiều, nhiều mặt: thời gian lịch sử đằng đẵng, không gian địa lý mênh mông, phong tục tập quán muôn màu muôn vẻ:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi Rồng ở

– Mỗi câu thơ là một định nghĩa, một khám phá về Đất và Nước. Có những hình ảnh giản dị đến bất ngờ khiến ta ngạc nhiên: nơi ánh đến trường, nơi em tắm, nơi ta hò hẹn Tác giả cảm nhận Đất Nước là kỉ niệm tuổi thơ, là tình yêu buổi ban đầu nồng nàn, trong sáng, là nỗi nhớ sâu đậm trong lời ca dao nổi tiếng: Khăn thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất/Khăn thương nhớ ai/Khăn vắt lên vai/Khăn thương nhớ ai/Khăn chùi nước mắt.

– Khái niệm Đất Nước được nhận thức ở những tầng bậc mới cụ thể mà toàn diện, sâu sắc thấm thía hơn bởi cách nói khép lại và mở ra, liên tưởng và hồi nhớ, thực tế và sách vở hòa quyện.

– Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ nhắc đến huyền thoại Con Rồng cháu Tiên, Lạc Long Quân, Âu Cơ. Đây là một sự suy ngẫm nghiêm túc, chân thành về cội nguồn của dân tộc.

– Hai câu thơ:

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

+ Hai chữ cúi đầu thể hiện niềm thành kính hướng về cội nguồn trong sự ngưỡng vọng.

+ Từ Tổ có nghĩa là cội nguồn, suy rộng ra là nòi giống dân tộc, đất nước, nói hẹp là gia đình, dòng họ. Ở đây tác giả có cách nói mới giản dị mà sâu sắc lấy ý từ câu ca dao:

     Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Tóm lại: Với cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng, với những hình ảnh cụ thể, tiêu biểu trong văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã giải thích khái niệm Đất Nước thật rõ ràng dễ hiểu mà không kém phần hấp dẫn. Từ đó nhà thơ khẳng định: Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng và cá nhân, giữa hiện thực và huyền thoại… Mỗi người không thể không có trách nhiệm với Đất Nước.

  1. b. Bàn về mối quan hệ giữa Đất Nước và cá nhân (Trong anh và em hôm nay… Đất nước muôn đời)

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

+ Anh là nhân vật trữ tình nhà thơ, em là nhân vật tác giả tạo ra để tâm tình, chính là tuổi trẻ – đối tượng mà nhà thơ đang hướng tới.

+ Nguyễn Khoa Điềm nghĩ về Đất Nước sâu sắc và thấm thía trong cảm xúc ân nghĩa của thế hệ sau với những lớp người đi trước. Chúng ta được thừa hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do cha ông để lại nên trong mỗi chúng ta đều có một phần Đất Nước. Bằng cách lí giải này, nhà thơ giúp ta hiểu Đất Nước thật gần gũi, thân thiết ngay trong mỗi con người chúng ta.

+ Nói như thế cũng là để khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người.

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa, nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn to lớn

+ Hình ảnh hai đứa cầm tay gợi tả sự gắn bó thắm thiết của đôi lứa yêu nhau, là hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc tuổi trẻ, hạnh phúc gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là một phần của Đất Nước. Sự hài hoàm nồng thắm ấy có tác dụng khắc sâu mối hòa hợp, thân ái giữa cái riêng và cái chung, sự thống nhất giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu Đất Nước.

+ Với cách sử dụng các tính từ đi liền nhau: hài hòa nồng thắm, vẹn tròn to lớn trong kiểu câu có cặp đối xứng về ngôn từ: Khi… Đất Nước…/ Khi… Đất Nước…, kết hợp với nghệ thuật tăng tiến: từ hai đứa cầm tay đến chúng ta cầm tay mọi người, từ Đất Nước… hài hòa nồng thắm đến Đất Nước vẹn tròn, to lớn, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp: Đất Nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân và cộng đồng. Sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh để dân tộc vượt qua mọi thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù.

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

+ Các cụm từ “mang Đất Nước đi xa”, “những tháng ngày mơ mộng” phác họa hình ảnh Đất Nước tươi đẹp, huy hoàng, phồn vinh, thịnh vượng ở tương lai. Đồng thời biểu thị một niềm tin mãnh liệt vào tài, đức của thế hệ trẻ Việt Nam. Soi vào thực tế, ta thấy khát vọng của nhà thơ đã thành hiện thực. Giữa những tháng ngày gian khổ hi sinh chống quân xâm lược, tác giả vẫn vững niềm tin vào tương lai dân tộc. Điều đó giúp ta hiểu giá trị của niềm tin, niềm lạc quan trong cuộc sống giúp con người đi tới thành công.

Em ơi Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời

+ Nghệ thuật liên tưởng, liệt kê “máu xương”, “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” kết hợp với điệp ngữ “phải biết” và lời gọi ngọt ngào, trìu mến “Em ơi em” làm cho giọng điệu thơ giàu chất chính luận, chất trí tuệ mà vẫn trữ tình tha thiết.

+ Các từ “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” có sức gợi rất lớn, khiến mỗi con người phải trăn trở, suy ngẫm.

      _ “Gắn bó” là biết đồng cam cộng khổ với nhân dân, không sợ khó, sợ khổ, dám đứng về phía dân chống lại kẻ thù. Không chê nước nghèo, nước lạc hậu do chiến tranh liên miên, dám vươn lên từ trong gian khó, cống hiến sức lực, tài năng, góp phần bảo vệ, xây dựng Đất Nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

      _ “San sẻ” là biết chia bùi sẻ ngọt, biết sống nghĩa tình Lá lành đùm lá rách, yêu thươn giúp đỡ mọi người lúc khó khăn. Biết gánh vác trách nhiệm của một công dân với Đất Nước.

     _Từ “hóa thân” có nghĩa là biến đi rồi hiện lại thành một người hoặc một vật cụ thể khác nào đó. Cụm từ “hóa thân cho dáng hình xứ sở” nói đến hi sinh của mỗi con người làm nên hình hài, dáng vẻ, sự trường tồn vĩnh cửu của Đất Nước, ý nghĩa của từ này sâu sắc hơn từ hi sinh. Ý thơ gợi nhớ bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:

Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường.

Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ

Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân

Tóm lại: Đoạn thơ là lời tự nhủ, tự khuyên mình của nhà thơ, cũng là lời căn dặn, nhắn gửi thế hệ trẻ phải có trách nhiệm với Đất Nước, phải sống hết mình, sống cho ra sống, sống để bảo vệ, tô điểm, làm đẹp cho Đất Nước muôn đời. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình bộc lộ một tình yêu quê hương đất nước cháy bỏng.

  1. 3. Lí giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân (phần còn lại)

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

– Để chứng minh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, nhà thơ đưa hàng loạt dẫn chứng bằng hình ảnh, sự việc, con người, câu chuyện dân gian, di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước, những tên làng, tên núi, tên sông… Tất cả đều có bàn tay, máu xương của lớp lớp con người Việt Nam tạo dựng, giữ gìn và hi sinh cho sự trường tồn của Đất Nước và dân tộc.

 + Các điệp từ “những”, “góp” nhấn mạnh vào số lượng nhiều người, nhiều đối tượng cùng đóng

góp làm nên Đất Nước.

+ Những hình ảnh quen mà lạ: “núi Vọng Phu” xứ Lạng, “hòn Trống Mái” ở Thanh Hóa, “gót ngựa Thánh Gióng” để lại ao đầm vùng Sóc Sơn, “chín mươi chín con voi dựng đất Tổ Hùng Vương”,con rồng nằm im góp dòng sông…” – sông Cửu Long ở miền Nam, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Nam, “con cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, “những người dân góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” được nhắc đến một cách tự nhiên, thú vị trong cảm xúc chân thành và suy tư sâu lắng của nhà thơ nhằm khẳng định chân lí: Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước, là chủ nhân đích thực và muôn đời của Đất Nước.

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

– Các từ “ruộng, đồng, gò, bãi” chỉ Đất Nước, nơi nào cũng in dấu người xưa. “Dáng hình” ông cha để lại cho cháu con phải chăng là dáng hiên ngang không khuất phục bất cứ kẻ thù nào? “Ao ước” của ông cha phải chăng là ao ước về một cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc? “Lối sống” ông cha phải chăng là lối sống cần cù, giản dị, khiêm tốn, thật thà, thủy chung tình nghĩa…?

– Cảm xúc trào dâng khiến tác giả thốt lên thành lời khẳng định: “Và ở đâu…chẳng mang…”, thành tiếng gọi: “Ôi Đất Nước…” để bày tỏ niềm tự hào, xúc động trước những cuộc đời, những con người đã hóa thân cho Đất Nước.

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

– Tiếng gọi tha thiết “Em ơi em” với lời khuyên “Hãy nhìn rất xa/ Vào bốn nghìn năm Đất Nước” cho thấy tấm lòng và dụng ý nhà thơ muốn thức tỉnh tuổi trẻ bằng lịch sử bốn ngàn năm hào hùng

của dân tộc.

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

– Nhà thơ khích lệ tuổi trẻ bằng cách so sánh kín đáo: “Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng…”. Hai từ láy đi liền nhau làm nổi bật phẩm chất “cần cù” và điều kiện sống vất vả, lam lũ “làm lụng” của những lớp người đi trước.

– Hình ảnh “người con trai ra trận”, “người con gái trở về nuôi cái cùng con” và “giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” đã cụ thể những việc làm mang tính đặc trưng của mỗi giới. Tác giả đặc biệt ngợi ca người phụ nữ Việt Nam “kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

– Để thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả không nêu tên hoặc nhắc lại những chiến tích lẫy lừng của các anh hùng tên tuổi mà có dụng ý chứng minh bằng những anh hùng vô danh:

Có biết bao người con gái, con trai

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

+ “Họ” ở đây là “những người con gái con trai. Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi”. Họ đều trẻ trung, tương lai phơi phới nhưng họ biết vì Đất Nước mà quên thân mình. Họ sống giản dị mà hữu ích và chết thanh thản bởi họ biết chết cho lí tưởng của dân tộc.

+ Các cặp từ sóng đôi: “sống” và “chết”, “giản dị” và “bình tâm” tạo điểm nhấn ngợi ca những con người hi sinh thầm lặng.

-> Đất Nước với các nhà thơ khác là của huyền thoại và anh hùng còn với Nguyễn Khoa Điềm là của những anh hùng vô danh, của nhân dân. Bằng những cuộc đời thầm lặng, vô danh, nhân dân đã tạo nên giá trị vĩ đại và trường cửu đó là Đất Nước.

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Bằng nghệ thuật liệt kê, điệp đại từ “họ” và sử dụng nhiều động từ liên tiếp “giữ, truyền, chuyền, truyền, gánh, đắp đập, be bờ”, nhà thơ muốn tôn vinh nhân dân và cụ thể hóa những việc làm thiết thực, lớn lao của nhân dân, tạo nên giá trị vật chất và tinh thần để lại cho con cháu muôn đời:

+ Từ buổi sơ khai của con người, “lửa” là một nhân tố quan trọng và cần thiết đưa loài người vượt hẳn lên một giá trị khác, tách xa loài vật. Từ “lửa” ở đây hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: lửa duy trì sự sống và ngọn lửa văn hóa, truyền thống dân tộc.

+ Khi phát triển cây lúa nước, với người Á Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng, “lửa” và “lúa” là hai thứ tối cần thiết cho cuộc sống. Bởi vậy giữ gìn “lửa” và “lúa” là giữ gìn sự sống còn của cộng đồng. Đó là cuộc chiến đấu sinh tử giữa con người và thiên nhiên. Nguyễn Khoa Điềm trân trọng và biết ơn nhân dân.

+ Với tinh thần dân tộc cao cả, luôn khát vọng duy trì bản sắc dân tộc, cha ông ta mới “truyền giọng nói, gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Nghĩa là giữ tiếng nói của dân tộc mình, giữ bản sắc của làng quê, của đất nước để con cháu biết cội biết nguồn. Nhân dân trong thời đại nào cũng vậy, lao động, chiến đấu, sống, chết giản dị, vô danh. Đánh giặc xong lại trở về với mảnh vườn thửa ruộng, cần cù, lam lũ với con trâu, cái cày. Nhân dân vĩ đại là ở đó. Nhân dân không chỉ làm nên lịch sử, nhân dân còn sáng tạo văn hóa. Chính nhân dân làm ra Đất Nước, Đất Nước thuộc về nhân dân.

+ Câu thơ “Đất Nước của nhân dân. Đất Nước của ca dao thần thoại.” hai lần nhấn mạnh chủ nhân của Đất Nước này là nhân dân vì “ca dao thân thoại” là do nhân dân sáng tạo nên. “Đất nước của ca dao thần thoại” cũng chính là “Đất Nước của nhân dân

*  Khi nghĩ về truyền thống dân tộc, tác giả chọn ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất:

Tình yêu, tình nghĩa và tinh thần chống giặc:

+ Say đắm trong tình yêu: “Yêu em từ thuở trong nôi

+ Quý trọng tình nghĩa: “Quý công cầm vàng những ngày lặn lội”.

+ Kiên trì, nhẫn nại, quyết liệt trong căm thù và chiến đấu:

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

-> Những câu thơ lấy ý từ ca dao càng khẳng định rõ hơn tư tưởng Đất Nước nhân dân vì ca dao nói riêng, văn học dân gian nói chung là sản phẩm do nhân dân sáng tạo, là tâm hồn, tư tưởng, là trí tuệ, khát vọng, là lời ăn tiếng nói của nhân dân.

– Đoạn thơ cuối tiếp tục gợi bản sắc văn hóa dân tộc:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

+ Hình ảnh những dòng sông đã đi vào thơ ca từ xưa đến nay. Khi làm nông nghiệp, cuộc sống con người thường gắn với những dòng sông.

     Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi (ca dao)

+ Sông đi vào tâm hồn nhân dân, là biểu tượng của nước Việt. Hơn nữa từ lâu, trong ý thức dân gian, sông còn mang ý nghĩa của sự sống, của tình yêu thương và khát vọng. Đáng tiếc ngày nay vì lợi nhuận, người ta đang đầu độc nhiều con sông. Nó nhắc nhở chúng ta phải có trách nhiệm góp phần bảo vệ những dòng sông, trả lại cho dòng sông màu xanh thơ mộng, nước ngọt trong lành.

+ Câu thơ cuối bài là cách diễn đạt hình tượng của thơ ca về sự đa dạng của các dòng chảy văn hóa trên một đất nước. Nó làm cho nền văn hóa của ta trở nên vô cùng phong phú, đa dạng: “Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

-> Chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm giữ gìn sự phong phú, giàu có của nền văn hóa dân tộc. Khi viết chương thơ Đất Nước (cũng như trường ca Mặt đường khát vọng), mục đích của Nguyễn Khoa Điềm là để thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ ở các đô thị miền Nam trong những ngày ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, mong họ dứt khoát trong sự lựa chọn đứng về phía nhân dân, phía cách mạng. Cho đến nay, tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị.

PHẦN III. Hướng dẫn viết kết bài bài thơ Đất nước

III. Tổng kết:

  1. 1. Nội dung:

– Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện: từ văn hóa – lịch sử, địa lí – thời gian đến không gian của đất nước. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.

– Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân chính là người đã làm ra đất nước.

  1. 2. Nghệ thuật

– Tác giả lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên.

– Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục – tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như cadao – dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích,… Điều đặc biệt là tác giả sử dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi liệu dân gian ấy.

– Giọng thơ trữ tình – chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người.

MỞ RỘNG: CÁC NỘI DUNG CÓ THỂ XEM THÊM

1. Hướng dẫn phân tích các bài Thơ và Văn cho kỳ thi THPT

1. 1 Các bài phân tích Thơ

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng

Phân tích bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu

Phân tích bài thơ Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm

+ Phân tích bài thơ Sóng – Xuân Quỳnh

1. 2 Các bài phân tích Văn

+ Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng

Chí Phèo của Nam Cao

Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)

Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Ông già và biển cả của HÊ-MINH-UÊ

Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thị – Lưu Quang Vũ

Vợ Nhặt của Kim Lân

2. Kênh tuyển sinh THPT Quốc Gia 

– Lịch thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia năm 2023

– Cách tính điểm thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia

– Khối C, tổ hợp của khối C, các ngành khối C, các trường ĐH có khối C

– Khối D, tổ hợp của khối D, các ngành khối D, các trường ĐH có khối D

– Đề thi minh họa môn Văn năm 2022

Gia Sư Thành Tài – đơn vị chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – bài 1

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.

Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu abây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.

Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giầu truyền thống văn hóa , giầu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào:

Tay bưng dĩa muối chén gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:

Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.

Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản gị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.

Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.

Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất …”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.

Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.

Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.

Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.

Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước

Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.

Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên … không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, “Người học trò thắng cảnh”. Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó.

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước

Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:

Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui …

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – bài 2

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người . Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước .

Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu abây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết
trồng tre mà đánh giặc .

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người . Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược . Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.

Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giầu truyền thống văn hóa , giầu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình . Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn . Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia . Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau .

Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa :

Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó .

Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản gị biết bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân” .

Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm .

Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương . Ý nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh .

Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền . Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn . Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất …”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.

Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả . Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn .

Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ , về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình .

Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .

Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ .

Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta :

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước

Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước . Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .

Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước .

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước . Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên … không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân , sự hóa thân của những con người không tên tuổi : “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” , “Người học trò thắng cảnh” . Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi , dòng sông . Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc :

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta .

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó .

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước

Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao . Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :

Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước . Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc : Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm .

Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới . Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui …

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước . Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng . Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại .

Trên đây là bài tập làm văn Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Baitaplamvan chúc các bạn học tốt!

1. Dàn ý phân tích tác phẩm Đất nước

1.1. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả của tác phẩm “Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm: ông là nhà thơ thế hệ chống Mĩ cứu nước, thơ của ông là sự kết hợp giữa chất triết lí, suy tư và cảm xúc nồng nàn của người trí thức về con người và đất nước.

– Giới thiệu về tác phẩm Đất nước: tác phẩm được trích từ trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ mang triết lí sâu sắc, thể hiện được tư tưởng mới “Đất nước của nhân dân”.

1.2. Thân bài phân tích tác phẩm Đất nước

* Đất nước được cảm nhận với phương diện văn hóa, lịch sử, chiều dài của thời gian, chiều sâu của không gian.

 Đất nước có từ bao giờ? (Giải thích cội nguồn của đất nước) (nằm ở 9 câu đầu)

– Tác giả khẳng định một vấn đề tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này đặt ra một điều thôi thúc con người về việc tìm về nguồn cội đất nước.

– Đất nước được bắt nguồn từ những điều gần gũi, bình dị trong đời sống của người dân Việt Nam từ rất xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” là cụm từ luôn xuất hiện trong câu mở đầu của các câu chuyện dân gian, “miếng trầu” gợi mở đến tục ăn trầu của người Việt Nam và cả truyện cổ tích trầu cau, “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: chính là một thói quen của những người phụ nữ Việt Nam xưa, “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” thể hiện thói quen về tâm lí, truyền thống yêu thương giúp đỡ lẫn nhau của dân tộc.

– Đất nước trưởng thành dần theo quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, thể hiện quá trình chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
Nhận xét: Tác giả đã đưa ra những cái nhìn vô cùng mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước được bắt nguồn từ chiều sâu của văn học, văn hóa, lịch sử và cả truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Định nghĩa về đất nước (thể hiện ở 28 câu thơ tiếp theo)

– Về góc nhìn không gian địa lí:

+ Tác giả tách rời 2 yếu tố “đất” và “nước” nhằm suy tư một cách sâu lắng.

+ Đất nước là một không gian riêng tư vô cùng quen thuộc gắn liền với không gian sinh hoạt của từng người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn liền với những kỉ niệm của tình yêu lứa đôi: “nơi em đánh rơi … thương thầm”.

+ Đất nước cũng là không gian bao la rộng lớn, không gian sinh tồn của một cộng đồng qua bao đời và bao thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng … dân mình đoàn tụ”.

– Đất nước được nhìn xuyên suốt theo chiều dài của lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương lai:

+ Trong quá khứ, đất nước là một nơi thiêng liêng, gắn liền với biết bao truyền thuyết, huyền thoại: “Đất là nơi chim về … trong bọc trứng”

+ Trong hiện tại: đất nước có ở tấm lòng mỗi người, mỗi người đều được thừa hưởng những giá trị cốt lõi của đất nước, khi có sự liên kết giữa con người với nhau và con người với đất nước, đất nước sẽ trở thành một cái lớn lao, nồng thắm, hài hòa. Đó là sự gắn kết giữa cái chung với cái riêng.

+ Trong tương lai: thế hệ trẻ có thể “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ mãi bền vững, trường tồn theo thời gian.

– Suy nghĩ về trách nhiệm của từng cá nhân đối với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ”, cần đóng góp, hy sinh hết mình để góp phần gây dựng đất nước.
Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của tác giả, đất nước hiện lên vừa mang nét gần gũi, thân thương lại vừa hào hùng, thiêng liêng và trường tồn mãi mãi.

* Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận sâu sắc về đất nước: đất nước của nhân dân

– Thiên nhiên và địa lý của đất nước không chỉ là sản phẩm được tạo ra từ tạo hóa mà còn được hình thành từ những phẩm chất và số phận của từng người, chúng là một phần xương máu, tâm hồn của con người:

+ Nhờ sự yêu thương hết mình, nghĩa tình thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”

+ Nhờ có tinh thần bất khuất, anh dũng trong quá trình dựng và giữ nước mà xuất hiện những di tích lịch sử liên quan đến quá trình gây dựng nước nhà.

+ Nhờ vào truyền thống hiếu học mà xuất hiện những “núi Bút non Nghiên”

– Nhân dân ta làm nên một lịch sử 4000 năm:

+ Họ là những con người vô cùng bình dị nhưng luôn nung nấu một tình yêu nước.

+ Tác giả muốn nhấn mạnh vào những con người vô danh nhưng lại góp phần làm nên lịch sử, khẳng định được vai trò của từng cá nhân với lịch sử của dân tộc.

– Nhân dân tạo dựng và giữ gìn những giá trị vật chất, giá trị tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”, … từ đó gây dựng một nền móng giúp phát triển đất nước lâu bền.

– Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm lên cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước trong tác phẩm được thể hiện thông qua tâm hồn con người: biết yêu thương, trọng tình nghĩa, biết công sức và biết chiến đấu hết mình vì đất nước.

– Nhận xét:

+ Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện rõ cái nhìn vô cùng mới mẻ về đất nước trên nhiều phương diện bao gồm: lịch sử, văn hóa, địa lí dựa vào tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân dân”.

+ Về nghệ thuật: chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng vô cùng đa dạng và sáng tạo, ngôn từ giàu chất suy tư và triết luận sâu sắc.

1.3. Kết bài

– Khẳng định một lần nữa giá trị của đoạn trích: đoạn trích đã nhấn mạnh vào tư tưởng “đất nước của nhân dân”, thể hiện được tinh thần yêu nước sâu sắc của tác giả, đánh thức tinh thần yêu nước của từng người.

– Nêu cảm nhận riêng về tác phẩm đất nước và có liên hệ vào thực tiễn về trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay đối với đất nước.

I. Dàn ý Phân tích bài thơ Đất nước ngắn gọn (Chuẩn)
 

1. Mở bài

Sơ lược về nền văn học 1945-1975, giới thiệu tác phẩm.

>> Tham khảo một số cách Mở bài Đất nước ngắn gọn, đặc sắc.
 

2. Thân bài phân tích Đất nước

a. Đất Nước có từ bao giờ?
– Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa.
– Gợi ra những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết.
+ Sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng.
+ Truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
–  Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục.
+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa.
+“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng.
+ Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa,…

b. Đất nước là gì?
– Về không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi, thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng lại mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’, “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương.
– Về thời gian lịch sử:
+  Quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông.
+ Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống.
+ Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước.

c. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân:

* Trên phương diện không gian địa lý:
–  Cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước.
– Gợi nhắc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
– Nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta.
– Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương.
=> Khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm. 

* Phương diện thời gian lịch sử:
– Suốt 4000 năm lịch sử, nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ chính là những người làm ra Đất Nước.
– Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần.

* Trên bình diện văn hóa:
–  Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung.
– “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.
– “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ đó thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường.
-“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay. 

3. Kết bài

Tổng kết giá trị nội dung nghệ thuật.

>> Tham khảo một số cách viết Kết bài Đất nước hay.
 

II. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đất nước siêu hay của học sinh giỏi
 

1. Phân tích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ngắn gọn, mẫu số 1 (Chuẩn):

Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những vần thơ, lời văn chân thành tha thiết, thấm đẫm hào khí dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất nước, giữa những năm tháng cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục sôi máu lửa. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình màu sắc tuyên truyền, không ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ông nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Sử dụng thành công giọng thơ mang tính triết luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn đời của dân tộc. Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”

Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa. Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung. Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua Hùng dựng nước và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Như vậy, có thể thấy rằng Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng Đất Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, có được lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi từ những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu và gắn kết bền chặt với nhau hơn. 

Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ cái chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh, thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng.

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”

Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự, tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví ““Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc…Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. 

“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ gìn non sông gấm vóc, và luôn nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính, trân trọng. 

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”

Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”, phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”

Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước. Con sẽ đưa Đất Nước đi xa, sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp vững mạnh gấp nhiều lần hôm nay. 

Sau khi đã định nghĩa một cách rõ ràng Đất Nước cả về không gian và thời gian, cả về địa lý lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại bằng những câu thơ rất tha thiết về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước.

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Lời thơ như là lời tâm tình của người anh với người em, lời tâm tình của chàng trai đối với một người con gái, cũng là lời lay tỉnh của nhà thơ, của thế hệ trước với thế hệ sau, cũng là lời lay tỉnh của cách mạng đối với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, những con người đang ngủ quên trong cuộc sống hưởng thụ . Đất Nước là một khái niệm trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh “máu xương của mình” thì đó lại là một khái niệm cụ thể, hữu hình. Đây cũng là phần nối tiếp trong ý thơ “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, thì ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ rõ Đất Nước là máu xương của mỗi con người, đã là phần căn cơ cốt yếu trong mỗi cá nhân, ai cũng phải có. Điệp từ “phải biết” trong hai câu thơ sau là biểu hiện của một mệnh lệnh, xác định trách nhiệm cho mỗi người, yêu nước không phải là một khái niệm chung chung, một tư tưởng trừu tượng mà yêu nước phải thực hiện bằng hành động. Mỗi con người cần phải biết “gắn bó san sẻ”,  đặc biệt phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”, dâng cả sự sống, thanh xuân cho Đất Nước, coi trọng Đất Nước hơn cả hạnh phúc riêng của bản thân mình.

Những bài văn Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất

Sau những dòng thơ nêu nên sự hình thành và phát triển của Đất Nước thì Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu đi vào nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, bằng câu hỏi Đất Nước do ai làm nên.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Trên phương diện không gian địa lý, tác giả đã cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ. Đặc biệt những địa danh này vốn đã trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam và gắn liền với những cổ tích, những thần thoại trong văn hóa dân tộc, mục đích là để gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước. Không chỉ vậy, sâu xa hơn nữa việc Nguyễn Khoa Điềm liệt kê các địa danh như vậy cũng là nhằm kể tên các vùng đất tương ứng trên dải đất hình chữ S, ví như “núi Vọng Phu” ngự ở Lạng Sơn, và còn ở rất nhiều nơi khác, gợi nhắc về hình ảnh những người vợ chờ chồng đi đánh giặc trên khắp Tổ quốc. Rồi “hòn Trống Mái” thì ở Thanh Hóa, “trăm ao đầm” mà gót ngựa Thánh Gióng đi qua thì rải rác khắp mọi miền đất nước, “đất tổ Hùng Vương” là vùng Phú Thọ, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Ngãi, “Hạ Long” ở Quảng Ninh, “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” là những địa danh ở mảnh đất miền Nam. Thêm nữa, việc nhắc đến các vùng đất khắp Tổ quốc như vậy còn là để nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta. Đồng thời những danh lam thắng cảnh ấy cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương. Ngoài ra việc sử dụng cấu trúc thơ độc đáo, một bên là con người, sự vật sự việc dung dị đại diện cho hình ảnh của nhân dân, một bên là những địa danh, những thắng cảnh kỳ vĩ, lớn lao đại diện cho hình ảnh của Đất Nước được nối với nhau bằng những từ “góp”, “góp tên”, “góp mình”,… Đã khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm. 

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Sau khi diễn giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân ở các chi tiết, thì Nguyễn Khoa Điềm chuyển sang nâng ý thơ lên tầm  khái quát. Khẳng định tầm vóc kỳ của Đất Nước vĩ ở phương diện địa lý qua hình ảnh “khắp ruộng đồng gò bãi” để mở ra một không gian lớn lao cao rộng, sau đó khẳng định sự trường tồn, vĩnh hằng của Đất Nước ở phương diện lịch sử “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”. Từ đó dẫn dắt, khẳng định nhân dân chính là người đã tạo ra Đất Nước vừa kỳ vĩ, vừa có bề dày lịch sự ở những ý thơ rất hay “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” cùng với “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy/Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”. Rất tha thiết, nồng đượm yêu thương khẳng định Đất Nước đã được tạo nên bằng chính cuộc đời của các thế hệ cha ông, bằng các dáng hình, những ước mơ, những phong tục tập quán đã in hằn trên dáng vẻ của Đất Nước. 

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Tư tưởng Đất Nước của nhân dân tiếp tục được khẳng định thông qua phương diện thời gian lịch sử. Trong suốt 4000 năm nhân dân đã chăm chỉ cần cù để xây dựng Đất Nước, khi có chiến tranh thì người con trai lập tức ra trận bảo vệ Đất Nước. Còn người con gái trở thành người chèo chống gia đình, nuôi con cái, thế nhưng mang trong mình dòng máu Bà Trưng Bà Triệu, họ cũng trở nên mạnh mẽ kiên cường cả trong chiến đấu. Sự anh dũng của ông cha ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm đã khiến họ trở thành những người anh hùng lưu danh sử sách, thế nhưng bên cạnh những con người hữu danh thì người ta thấy nhiều hơn là những con người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên”. Dù không ai nhớ mặt đặt tên, thế nhưng những thế hệ sau vẫn luôn trân trọng, yêu quý bởi họ chính là người làm ra Đất Nước. 

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”

Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu ngọn lửa sáng ngời sau bao năm tháng sống trong tối tăm, lạnh lẽo. Truyền cho con thứ ngôn ngữ tiếng nói của riêng dân tộc mình, giữ cho mình cái văn hóa làng, xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ sở vật chất, đất đai để cho các thế hệ kế tiếp phát triển trên mảnh đất ấy. 

“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

Trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm cũng chỉ ra những nét đẹp riêng của tâm hồn Việt, của văn hóa Việt. Vì “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” thế nên khi nhìn vào kho tàng văn học dân gian đều thấy hiện lên diện mạo văn hóa của Đất Nước, thấy được hình bóng của nhân dân những con người mang đậm nét truyền thống của dân tộc. Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung. “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình. Tiếp theo là câu “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ đó thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường. Cuối cùng là câu tục ngữ “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay. 

“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Kết lại đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng thì tác giả đã nêu lên những cảm nhận rất tinh tế về vẻ đẹp của quê hương, của Đất Nước. “dòng sông” dù có bắt nguồn từ đâu thì khi chảy đến mảnh đất quê hương cũng đều mang giọng hát của Đất Nước, mang đậm bản sắc của dân tộc. Mỗi con người Việt Nam, trong công cuộc mưu sinh, lao động trên cái dòng chảy ấy lại có những cách ứng xử khác nhau rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến.

Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước với giọng văn chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết của mình đối với đất nước trên nhiều bình diện, địa lý, lịch sử, và bình diện văn hóa với tư tưởng bao trùm xuyên suốt ấy là tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Về nghệ thuật đoạn trích được viết theo lối quy nạp, biểu hiện nội dung chính luận một cách trữ tình bằng cách mượn các chất liệu văn hóa dân gian thân thuộc, mượt mà, êm ái, mang đến cho người đọc những xúc cảm thẩm mỹ độc đáo. Giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình tình, tha thiết, sâu lắng như giọng điệu của đôi lứa yêu nhau làm cho nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người.

———————HẾT BÀI 1—————————–

Trong chương trình học Ngữ Văn lớp 12 phần bài Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm là một nội dung quan trọng các em cần chú ý Soạn bài Đất nước đầy đủ.

Ngoài nội dung ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm phần Soạn bài Đọc thêm: Đất nước nhằm chuẩn bị trước nội dung bài Đất nước – Nguyễn Đình Thi (đọc thêm) SGK Ngữ Văn lớp 12.

2. Phân tích Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm hay nhất, mẫu số 2:

Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm

Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.

Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.

Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xưa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ :ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc. Là những con người đó làm nên đất nước…

Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam.

Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:

Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã giần sàng
Đất nước có từ ngày đó

Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.

Phân tích bài thơ Đất nước chi tiết, dễ hiểu

Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khan trong nỗi nhớ thầm

Đất nước không chỉ hiện hiển trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.

Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phương hoàng”, “núi bà đen, bà điểm”, “lạc long quân âu cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. NHớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.

Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.

Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.

Hơn hết tác giả còn khẳng định
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước

Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này.

Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế.

Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước

Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại.

Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nước:

Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.

Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.

Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn còn sống mãi trong lòng người đọc.

3. Phân tích bài thơ Đất Nước hay ngắn, mẫu số 3:

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người . Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước .

Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc .

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người . Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược . Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.

Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa , giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình . Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn . Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia . Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau .

Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa :

Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.

Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân” .

Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đất nước giúp các em hiểu được những quan niệm mới mẻ về đất nước

Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền . Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn . Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất …”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.

Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả . Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn .

Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ , về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình .

Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .

Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ quy chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ .

Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta :

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước

Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước . Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .

Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước .

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước . Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên … không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân , sự hóa thân của những con người không tên tuổi : “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” , “Người học trò thắng cảnh” . Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi , dòng sông . Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc :

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó .

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước

Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao . Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :

Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quý trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm .

Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui …

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng . Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại .

4.  Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ngắn nhất, mẫu số 4:

Từ bao đời nay, đất nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà văn từ khắp mọi miền, tình yêu quê hương đất nước dường như đã đi vào từng câu hát, từng lời văn, lời thơ. Không giống như đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Hoàng Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật đầy đủ và trọn vẹn. Bài thơ “Đất nước” của tác giả xoay quanh cuộc sống sự gần gũi, bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường, mạnh mẽ vươn lên trên mọi sóng gió.

Ngay từ đầu, những vần thơ đầy nhẹ nhàng, bình dị đến thân thương đã dẫn dắt người đọc trở về thuở sơ khai, khi đất nước mới được sinh ra:

“Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó… “

Bằng những lời thơ bình dị mà tinh tế, khái niệm “Đất nước” đã được nêu lên thật cụ thể. Đất nước hiện ra thật đẹp đẽ, giản đơn mộc mạc hơn bao giờ hết, không biết có từ bao giờ, chỉ biết trong những câu chuyện mẹ kể từ rất bé thì đất nước đã có rồi. Người đọc như được dẫn dắt trở về với quá khứ, với những điều thân quen đầy nhưng nhớ “ngày xửa ngày xưa”, một khoảng

Không gian dài đằng đẵng hiện lên, thật xa vời nhưng cũng gần gũi đến lạ thường. Không xác định được một mốc dấu cụ thể, chính xác. Tiếp theo, đất nước được hiện lên qua miếng trầu bà ăn, qua hình ảnh những lũy tre xanh bên làng quanh năm mưa nắng nhọc nhằn. Đất nước đã lớn lên và vượt qua bao khó khăn từ khi người dân mình biết trồng tre đánh giặc, bảo vệ xóm làng, bảo vệ từng tấc đất thân yêu của quê hương. Hay cả những hình ảnh thật đơn giản, nhưng lại có một tình cảm dào dạt chan chứa, là hình ảnh mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rồi cả những hình ảnh mộc mạc tưởng như vô tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của sự sống “cái cột”, “cái kèo”, hạt gạo tinh trắng tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của đất nước trải qua biết bao thăng trầm, chông gai.

Đất nước được thấy qua cái nhìn đơn giản của người dân lao động chất phác, chân lấm tay bùn nhưng tình cảm vẫn luôn nồng nàn, đằm thắm.

Bằng những lời thơ bình dị như thế, đất nước tiếp tục được nhà thơ vẽ ra qua cái nhìn của một tình yêu trong sáng, thuần khiết lứa đôi:

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm, Đất Nước là nơi hẹn hò, là nỗi nhớ thầm da diết. Một sự hội tụ đầy tương xứng đẹp đẽ đến bất ngờ, sự nảy mầm và ra hoa kết trái của Đất-Nước như chính tình yêu xanh tươi được vun đúc để tạo thành nỗi nhớ vô bến bờ. Đất nước được hình thành từ chính những tình yêu lứa đôi chung thủy, mặn nồng hòa quyện vào tình yêu to lớn của quê hương đất nước.

Không phải là một khoảng không thênh thang, rộng lớn bao la, Đất nước còn hiện hữu trong chính không gian sinh hoạt, cuộc sống bình dị của người dân:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng”

Như quay ngược thời gian, mảnh đất đầu tiên đã có, những người con đất việt đầu tiên đã đặt chân lên cái nền móng của quê hương từ thời tổ tiên Lạc Long Quân và Âu Cơ:

“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Cội nguồn của một dân tộc hào hùng dần lộ ra qua những lời thơ quá rõ ràng của tác giả. Khẳng định chắc chắn ràng đất nước đã có từ rất lâu, từ thời Lạc Long Quân và Âu cơ, những người tổ đã khai hoang nên mảnh đất màu mỡ, xanh tươi của cuộc sống với biết bao trang sử hào hùng, lẫm liệt.

Phân tích Đất nước trích Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm

Hay đất nước lại trở về với sự gần gũi quanh ta, về với mái nhà của sự yêu thương, che chở:

“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ra cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”

Tác giả như khẳng định một trách nhiệm to lớn cho thế hệ đi sau, nó như một cây cầu còn dang dở trên con đường đi tới ngày mai của đất nước. Không chỉ có vậy, đất nước vẹn tròn, to lớn khi tất cả mọi người cùng nắm tay, cùng nhau xây dựng, vun đắp nên một đất nước hòa bình, tươi đẹp.

Và hơn thế nữa, đất nước sẽ còn đi xa, đi tới những chân trời mộng mơ, và mãi trường tồn vững vàng:

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời… “

Gánh nặng như được sẻ chia cho thế hệ sau, giữ gìn đất nước hòa bình và luôn thật tươi đẹp để có thể vươn xa hơn trong tương lai. Như một lời nhắn nhủ đầy tha thiết, dạy cho con cháu phải biết sống và đấu tranh cho chính quê hương thân yêu, san sẻ và gắn bó cùng đất nước như chính xương thịt, ruột gan của mình để làm nên Đất Nước muôn đời.

Đi sâu vào từng ngõ ngách trên đất nước Việt Nam, tác giả đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ những núi non trập trùng, hiên ngang như chính dáng hình đất nước, cả những dòng sông sâu thẳm, nước xanh một màu. Đất Nước hiện hữu khắp mọi nơi, tác giả như muốn nói rằng đất nước là do nhân dân làm nên từ muôn đời bằng chính tình yêu nồng thắm, chân thành:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Bằng ngòi bút ví von mà chân thực tác giả Nguyễn Khoa Điềm lần lượt vẽ nên những chiến công hiển hách của cha ông ta. Là hình ảnh những người con đất Việt hi sinh cả tuổi xuân, cả cuộc đời mình để góp xương, góp máu cho Đất nước, để lại con thơ, vợ hiền da diết ngóng trông. Là tình yêu vững bền như những tảng đá lớn, đứng hiên ngang chẳng ngại gió mưa. Những vết dấu oai hùng, dũng mãnh bước qua để đời đời còn nhắc mãi,… Đất nước có một phần xương máu của những con người bất khuất, trung kiên, một đời vì Đất nước, nguyện hi sinh tất cả để đất nước được trường tồn hơn bốn nghìn năm và lâu hơn thế. Vẽ ra bức tranh toàn cảnh rộng lớn của đất nước, sự tươi đẹp của non sông gắn liền với những trang sử hào hùng của cả một dân tộc.

Để làm nên một người anh hùng thì có biết bao nhiêu người anh hùng đã ngã xuống, mà không ai biết tên họ, không ai còn nhớ. Để làm ra đất nước những vị anh hùng dân tộc đã ngã xuống không một chút do dự, nuối tiếc, sẵn sàng đánh đổi tất cả để thấy được sự tươi đẹp của Đất Nước mai sau:

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
…. .
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Cuộc chiến không lại từ đấy, bàn tay chai sạn vì cầm súng lại tiếp tục cầm cuốc, cầm cày tiếp tục xây dựng đất nước. Bảo vệ Đất nước khỏi nòng súng giặc ngoại xâm rất gian nan, nhưng công cuộc sản xuất kinh tế để làm nên Đất nước giàu mạnh cũng chẳng hề dễ dàng. Họ tiếp tục truyền lửa cho thế hệ sau, không bao giờ quên ơn đức của thế hệ đi trước và tiếp tục làm nên lịch sử đời đời của dân tộc, của Đất nước:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Tình yêu Đất Nước như được truyền đời đời, khắc sâu vào trong trái tim của mỗi con người Việt Nam, tình yêu đó chợt cất lên thành những câu hát thân thương hay là cả một truyền thống văn hóa trăm sắc màu:

“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Bằng lời văn giản dị mà tinh tế, đầy sức thuyết phục đã làm rõ nét hình ảnh Đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Dáng vẻ Đất Nước đầy thân thương như chẳng thể nào phai mờ trong những thứ nhỏ nhặt nhưng không chút tầm thường.
 

5. Phân tích bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm của học sinh giỏi, mẫu số 5:

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, giữa chất trữ tình và chất chính luận. Đoạn trích “Đất nước” đã cho người đọc thấy rõ được những đặc điểm của thơ ông. Đặc biệt đoạn thơ đầu của bài thơ nhà thơ đã giải thích Đất nước bằng những hình ảnh giản dị hằng ngày:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
….
Đất nước có từ ngày đó”.

Câu thơ đầu cất lên đầy giản dị và mộc mạc: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Câu thơ ngỡ như một câu nói bình thường, đưa người đọc trở về những hình ảnh thuở xưa của đất nước. Tổ quốc này đã phôi thai và hình thành suốt chiều dài lịch sử, khi con người xuất hiện, lớn lên thì đất nước đã có rồi.

“Đất nước có trong…mẹ thường hay kể.”

Hình ảnh đất nước hiện lên qua những lời kể của mẹ. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” gợi trong chúng ta những nỗi niềm cổ tích xa xăm nhưng thật diệu kì. Nơi ấy có cô tấm, chàng Thạch Sanh, một thế giới lung linh huyền ảo ấy ta đã có dịp lạc vào từ thuở ấu thơ.

“Đất nước bắt đầu…bà ăn”

Đất nước vốn lao lao nhưng bây giờ cũng ẩn mình vào trong miếng trầu bà ăn. Và chính miếng trầu ấy lại chứa đựng cả một nền văn hóa của người Việt Nam ta. Người xưa có cấu “miếng trầu là đầu câu chuyện” nó thể hiện sự giao tiếp, là tín hiệu của hạnh phúc nhân duyên. Miếng trầu đã đi sâu và nếp cảm, nếp nghĩ của người dân Việt từ bao đời nay. Qua hình ảnh này chúng ta cũng thấy được chiều dài của lịch sử, của đất nước, cội nguồn nơi chúng ta sinh sống.

“Đất nước lớn lên…đánh giặc”

Tổ quốc vững mạnh và trưởng thành theo từng năm tháng, phải trải qua những năm tháng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Câu thơ trên mang hơi thở của Thánh Gióng là người đã sử dụng tre làng để đánh giặc. Và bất cứ một người Việt Nam nào không thể không biết đến truyền thuyết Thánh Gióng ấy. Và với lời thơ bình dị của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước còn hiện lên qua những phong tục cổ truyền của người Việt Nam:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu”

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xuất hiện với mái tóc búi sau trở thành nét đẹp, nét truyền thống của phụ nữ Việt. Tập tục này không chỉ tôn lên vẻ đẹp đoan trang của người phụ nữ mà còn thể hiện nét đẹp đặc trưng trong bản sắc văn hóa của người Việt.

Bài văn Phân tích Đất nước mẫu số 5

Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước cũng gắn liền với những đạo lý son sắc thủy chung mà tính nghĩa : “Cha mẹ…gừng cay muối mặn”. Người Việt Nam ta vốn coi trọng nghĩa tình, sống có trước có sau, đặc biệt là sự thủy chung trong tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Đặc biệt, sự vận dụng câu ca dao”gừng cay muối mặn” là sự có chủ ý của nhà thơ.

Tác giả tiếp tục phát hiện hình ảnh đất nước có mặt trong những sự vật rất đỗi bình thường “cái kèo, cái cột thành tên”. Thì ra đất nước to lớn, vĩ đại như vậy chẳng ở đâu xa, nó gắn liền với những công việc lao động thường ngày nhất với con người.

“Hạt gạo…sàng”

Tác giả sử dụng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với phép liệt kê đã khắc sâu sự vất vả của người nông dân để làm ra hạt thóc, hạt gạo. Đồng thời , câu thơ cũng cho thấy những vẻ đẹp phẩm chất của người lao động Việt nam. Đó là sự chịu thương, chịu khó, sự cần cù của người dân trên dải đất hình chữ S này.

Đất Nước đã được nhà thơ lí giải cắt nghĩa theo cảm nhận của riêng mình. Đoạn thơ thể hiện niềm tự hào, trân trọng sâu sắc của tác giả dành cho Tổ quốc mình. Đoạn thơ rất thành công với thể thơ tự do mỗi câu như một cảm xúc trào dâng từ đáy lòng thi sĩ. Nhà thơ đã vận dụng thành cồn những chất liệu văn hóa văn học dân gian. Và khi kết thúc những câu thơ ấy, trong lòng người đọc cũng xuất hiện hình ảnh đất nước vừa quen thuộc, vừa mới lạ, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi và biết bao mến thương.
 

6.  Phân tích bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đạt điểm cao, mẫu số 6:

Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ; hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.

Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả khá chặt chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian – lịch sử, qua về rộng của không gian – lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hóa – phong tục, lối sống, tính cách của người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi, đồng thời lại cũng có những vang động sâu xa.

Bài Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mới nhất

Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình – chính luận, nhà thơ đã đưa ra định nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ tích, ca dao. Lời thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại…. tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “Ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể

Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn hóa dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.

Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nõ dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân trong mỗi chúng ta.

Phần sau của đoạn thơ từ “Những người vợ nhớ chồng” đến hết đoạn trích là phần tập trung làm nổi bật tư tưởng “Đất nước của nhân dân”. Trong phần này, tư tưởng đã quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước.

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái… vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây, thiên nhiên, tạo hóa không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thùy chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng trong đánh giặc; là những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ “đã làm ra Đất Nước”. Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.

Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

Đó là một chân lí. Một chân lí đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy tự hào và vang động sâu xa.

Làm nên sự thành công của đoạn trích Đất Nước, ngoài sự độc đáo đầy phóng túng của thể thơ tự do còn phải kể đến tài năng xuất sắc của Nguyễn Khoa Điềm trong việc tiếp thu và sử dụng những chất liệu dân gian. Bài thơ là sự hòa nhập một cách thật nhuần nhuyễn giữa hình thức trữ tình – chính trị với các chất liệu từ ca dao, cổ tích, huyền thoại…

Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ tình – chính trị, đoạn trích Đất Nước quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

7.  Phân tích bài thơ Đất Nước ngắn hay, mẫu số 7:

7.1. Dàn ý Phân tích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chọn lọc hay nhất:

7.1.1. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
– Khái quát về nội dung của bài thơ “Đất Nước”.
7.1.2. Thân bài: 
a) Khổ 1: Cội nguồn của Đất Nước: 

–  “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”: Nhấn mạnh Đất Nước có từ rất lâu trước đó. 
–  “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”: Những câu chuyện cổ tích dân gian. 
– “Miếng trầu bây giờ bà ăn”: Tục ăn trầu của dân tộc và truyện cổ tích trầu cau.
– “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: Phong tục, tập quán của người phụ nữ Việt Nam. 
-> Đất nước có trong những câu chuyện lâu đời và trong từng phong tục, tập quán của dân tộc. 
– ” Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”: Tình nghĩa vợ chồng son sắc, thủy chung. 
+ “cái kèo, cái cột thành tên”
+ “Hạt gạo phải một nắng hai sương” 
->  Đất nước gắn liền với quá trình lao động sản xuất của con người. 
– Cảm nhận về đất nước qua phương diện không gian địa lí:
+ “Nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi em đánh rơi… thương thầm”: Đất nước là nơi sinh sống của mỗi người.
+ “Nơi con chim phượng hoàng”, “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”: Đó là nừng, biển gắn liền với đất nước. 
+ “Nơi dân mình đoàn tụ”: là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ.
– Cảm nhận về đất nước qua phương diện thời gian:
+ “Thời gian dài đằng đẵng”: Chiều dài lịch sử dân tộc gắn liền với truyền thuyết Thánh Gióng, câu chuyện dựng nước của các vua Hùng. 
+ Trong hiện tại: Đất nước đều có trong mỗi người, là thứ tình cảm cao cả đối với mỗi người. 
+ Trong tương lai: Thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa”, “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn và phát triển bền vững. 
-> Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
b) Khổ 2: Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân dân.
– Tình nghĩa vợ chồng yêu thương, thủy chung đã góp nên “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”. 
+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh dũng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những trang sử vẻ vang của dân tộc.
+ Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”
– Chính nhân dân đã làm nên 4000 năm Đất nước:
+ Những người con trai, con gái bình dị nhưng chăm chỉ.
+ Những người anh hùng vô danh làm nên lịch sử.
– Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,… từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.
– “Đất Nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”: Đất nước gắn liền với nhân dân và của nhân dân. 
c) Khổ 3: Vai trò của nhân dân qua bốn ngàn năm lịch sử Đất Nước:
– “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu?/ Mà khi về Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát”: Đặc điểm riêng về địa lí Việt Nam, những con sông có xuất xứ từ các nước láng giềng.
– Số đếm phiếm chỉ “trăm màu”: Nhấn mạnh sự đa dạng, phong phú trong văn hóa dân tộc.
=> Đất Nước từ nhân dân mà ra, do nhân dân mà có và nhờ nhân dân mà tồn tại. 
7.1.3. Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật: 
+ Giá trị nội dung: Đất Nước được thể hiện ở nhiều phương diện lịch sử, địa lí. Từ đó, tác giả muốn nhấn mạnh về trách nhiệm của thế hệ trẻ với Đất Nước. 
+ Giá trị nghệ thuật: Sử dụng các chất liệu của văn hoá dân gian đa dạng, sáng tạo, ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc, thể thơ tự do, giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha.
– Liên hệ mở rộng. 

7.2. Bài văn Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay:

“Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”

Đó là những câu thơ thiết tha của Chế Lan Viên khi nhắc về đất nước. Cùng viết về đề tài đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có bài thơ “Đất Nước”. Tác phẩm giúp người đọc cảm nhận được cội nguồn, những nét đẹp của đất nước. Từ đó, nhắc nhở mỗi người cần có trách nhiệm bảo vệ đất nước. 

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giúp độc giả có những cảm nhận về cội nguồn đất nước: 

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Câu thơ đầu tiên vang lên thật tự nhiên như một lời kể. Đất Nước có từ rất lâu rồi, không ai biết mốc thời gian cụ thể. Đất Nước có từ khi “ta” lớn lên, có trong những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mẹ thường hay kể. Những câu chuyện quen thuộc đó lại dạy chúng ta bài học đạo lí như “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Không chỉ vậy, đất nước còn có trong miếng trầu bà ăn. Hình ảnh giản đơn đó gợi đến “Sự tích trầu cau” – câu chuyện xúc động về nghĩa tình vợ chồng, anh em gắn bó. Đất nước còn được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm bất khuất của cả dân tộc. Hình ảnh cây tre tượng trưng cho con người Việt Nam và cũng là vũ khí chiến đấu của nhân dân muôn đời. Đặc biệt, Đất Nước còn được cảm nhận trong tình nghĩa vợ chồng son sắt, thủy chung. Ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã sử dụng cấu trúc “Đất Nước đã có”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, giúp người đọc hình dung được quá trình phát triển và trưởng thành của đất nước. Từ đó, làm nổi bật cội nguồn đất nước. Đó là những gì giản dị, thân thương nhất và hiện hữu xung quanh chính mỗi người.

Đến những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên mối quan hệ giữa đất nước với mỗi cá nhân:

“Đất là nơi anh đến trường 

Đều có một phần Đất Nước”

Đất nước gắn liền với “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi ta hò hẹn”. Đất nước trong cảm nhận của tác giả gắn liền với những nơi quen thuộc, bình dị nhất. Không chỉ vậy, đất nước còn gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết các vua Hùng dựng nước. Điều này cho người đọc thấy được đất nước đã có từ rất lâu rồi. Trong đoạn thơ trên, tác giả còn khơi gợi dòng chảy của thời gian từ quá khứ, hiện tại cho đến tương lai. Từ đó, khơi dậy niềm tự hào về bề dày lịch sử đất nước, về cội nguồn thiêng liêng của dân tộc. Đất nước không ở đâu xa mà hóa thân trong mỗi con người “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”. Sự sống của mỗi cá nhân không phải chỉ là bản thân mà là của đất nước. Bởi mỗi người Việt Nam đều được thừa hưởng một phần vật chất và tinh thần của đất nước. 

Những câu thơ tiếp theo là lời nhắn nhủ thiết tha của tác giả:

Em em ơi

Làm nên Đất Nước muôn đời”

Giọng thơ đầy ngọt ngào thiết tha của tác giả như một lời tâm sự, nhắn gửi chân tình dành cho thế hệ trẻ cũng như bản thân mình. Đó là mỗi người cần có trách nhiệm trong việc giữ gìn và làm cho đất nước sống mãi muôn đời. 

Khổ thơ tiếp theo đó là tư tưởng đất nước là của nhân dân:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi              Vọng Phu

Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn khám phá và đậm chất nhân văn khi mà đặt phẩm chất con người hóa thân vào những sự vật đất nước. Từ những con người bình dị “cặp vợ chồng”, “người học trò nghèo”, “Ông Đốc” đến những vị anh hùng trong truyền thuyết “Thánh Gióng”, “Hùng Vương”. Tất cả họ đều góp phần làm nên Đất Nước. Hay từ những con vật bé nhỏ, gần gũi trong cuộc sống đời thường như “con cóc, con gà” đến những loài vật linh thiêng trong tâm linh người Việt “con rồng, con voi” cũng góp phần tô đậm vẻ đẹp của đất nước. Không gian địa lí đã đưa nhà thơ với những phát hiện mới mẻ về vẻ đẹp của quê hương. Không chỉ vậy, nhà thơ còn nhìn nhận đất nước ở phương diện chiều sâu lịch sử. Tác giả tự hào về phẩm chất cao đẹp của những người anh hùng bình dị trong cuộc sống đời thường.

Đến những câu thơ cuối, nhà thơ đã nhấn mạnh về trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc xây dựng đất nước:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu?

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông sâu”

Ý thơ “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu?/ Mà khi về Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát” được sử dụng để nhấn mạnh về đặc điểm riêng về địa lí Việt Nam. Ở câu thơ cuối, từ “trăm màu” đã nhấn mạnh sự đa dạng, phong phú trong văn hóa dân tộc. Vậy qua đây, nhà thơ nhấn mạnh Đất Nước từ nhân dân mà ra, do nhân dân mà có và nhờ nhân dân mà tồn tại. 

Bằng việc sử dụng các chất liệu của văn hoá dân gian đa dạng, sáng tạo, ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc, thể thơ tự do, giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp cho người đọc cảm nhận được hình ảnh Đất Nước ở nhiều phương diện như lịch sử, địa lí. Từ đó, nhấn mạnh trách nhiệm của thế hệ trẻ với quê hương, đất nước. 

———————-HẾT———————–

/phan-tich-bai-tho-dat-nuoc-39504n.aspx
Phân tích bài thơ “Đất Nước” để thêm yêu, thêm tự hào về một Đất Nước anh hùng.  Phân tích tác phẩm là thao tác bóc tách, xem xét, trình bày các nhận định, đánh giá của người viết về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó dựa trên những hiểu biết của bản thân. Mỗi thể loại văn học sẽ có cách phân tích khác nhau. Chẳng hạn thể loại kịch sẽ có cách phân tích đặc trưng của thể loại, các em có thể tham khảo bài mẫu Phân tích truyện Hồn Trương Ba của Lưu Quang Vũ để hiểu hơn về cách phân tích đặc trưng này. Khác với kịch, thơ sẽ có cách phân tích đặc trưng của thơ, em có thể tham khảo hai bài văn mẫu Phân tích bài Tây Tiến để tìm hiểu cách phân tích thơ hiện đại; đón đọc cách phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo để hiểu hơn về cách phân tích thể loại cáo (một thể thơ cổ đặc trưng của văn học trung đại).

1. Khái quát nội dung, nghệ thuật bài thơ Đất nước: 

Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời trên chiến trường Bình Trị Thiên vào mùa đông năm 1971. Với việc kết hợp tinh tế giữa ca dao và dân ca vào trong thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được cảm nhận mới lại của tác giả đối với đất nước. Bài thơ này đã được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy cho học sinh.

Giá trị nội dung:

– Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện: từ văn hóa – lịch sử, địa lí – thời gian đến không gian của đất nước. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.

– Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân chính là người đã làm ra đất nước.

Giá trị nghệ thuật:

– Tác giả lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên.

– Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục – tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như cadao – dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích,…Điều đặc biệt là tác giả sử dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi liệu dân gian ấy.

– Giọng thơ trữ tình – chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người.

2. Dàn bài phân tích đoạn một bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm: 

2.1. Mở bài:

– Sơ lược về nền văn học trong những năm 1945-1975, cùng với đó giới thiệu tác phẩm.

2.2. Thân bài:

*Đất Nước đã có từ bao giờ?

– Đất Nước đã ra đời từ rất lâu, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ ngày xưa.

– Gợi ra những truyền thống thật tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, được dựa truyền thuyết.

+ Sự tích Trầu Cau, và khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là những tình nghĩa anh em sâu đậm, và tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của người dân ta đấy là tục ăn trầu nhuộm răng.

+ Truyền thuyết Thánh Gióng cũng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, và bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

– Đất Nước đã có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục của cha ông ta.

+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc đến người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà và các mẹ thời xưa.

+ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là những đại diện cho truyền thống coi trọng những tình nghĩa vợ chồng.

+ Đất Nước có từ rất lâu đời được và hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong mỗi cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa, cấy cây…

*Đất nước là gì?

– Về với không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường” và “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi thật sự thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng đã lại mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’và “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương đất nước.

– Về thời gian lịch sử:

+ Quá khứ đó cũng là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi đó tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là những con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về những truyền thống hào hùng dựng nước và gìn giữ nước của cha ông.

+ Trong hiện tại, nơi Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, đã bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn sẽ  tồn tại trong từng nếp sống.

+ Trong tương lai đó là một Đất Nước với rất nhiều triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, đã được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc của cả Đất Nước.

*Tư tưởng Đất Nước của nhân dân nước ta:

– Trên phương diện không gian và địa lý:

– Cảm nhận từ Đất Nước đã trải qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của lãnh thổ Việt Nam bằng việc gọi tên những địa danh này qua từng dòng thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với miền quê hương, đất nước.

– Gợi nhắc những truyền thống thật sự tốt đẹp của dân tộc.

– Nhấn mạnh việc đất nước của chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó đã gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc chung một nhà của nhân dân ta.

– Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, cũng là ý chí quyết tâm chống lại  giặc ngoại xâm của toàn thể dân tộc Việt Nam, đã nhắc lại thuở xây dựng đất nước thiêng liêng và hào hùng, rồi sau cùng còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc và con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương.

=> Khẳng định một cách mạnh thật mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, rất nhiều công góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.

* Phương diện thời gian và lịch sử nước ta:

– Suốt 4000 năm lịch sử, nơi nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ cũng chính là những người làm ra Đất Nước.

– Nhân dân không chỉ là người xây dựng, bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy lại là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân.

* Trên bình diện văn hóa:

– Tác giả cũng đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa rất tiêu biểu” của dân tộc Việt đã nói chung.

– “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, đó là nét đẹp say đắm nhất trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở nơi xung quanh mình.

– “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”,  và từ đó có thể thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là giá trị vật chất tầm thường.

-“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra một vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao nhiêu đời nay.

2.3. Kết bài:

– Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Đất Nước của tá giả Nguyễn Khoa Điềm .

3. Bài mẫu phân tích Đoạn 1 bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm: 

Từ xưa cho đến nay viết về đất nước luôn là nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của những nền văn học. Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt nổi bật của nền văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về đất nước mộng mơ. Quan điểm đó đã được ông thể đã hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước thuộc trường ca Mặt đường đầy khát vọng.

Đất nước đối với mỗi người có những quan điểm khác nhau. Đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng sự cảm mến của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, và lần lượt từng lớp của khái niệm đất nước đã được tác giả dần dần lật mở ra. Nhà thơ không đưa ra định nghĩa bằng khái niệm quá mơ hồ, trừu tượng mà đi từ những điều hết sức chi tiết, cụ thể từ trong chính của cuộc sống thường ngày:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc

Hình ảnh Đất Nước hiện lên thật bình dị, đất nước có từ những câu chuyện cổ tích, từ miếng trầu, và từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan lũ quân xâm lược Ân thông qua khái niệm cụ thể mà tác giả đề cập. Chỉ biết rằng hình ảnh Đất nước ta từ ngày đó đã thấm nhuần trong mỗi đứa trẻ.

Không chỉ vật mà Đất Nước còn được gợi lên từ những thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống đẹp đẽ của cả dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” đã cho thấy những nét đẹp được hình thành ngay cả trong sinh hoạt văn hóa đời thường. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, dù bị Pháp hóa hay Hán hóa nhưng những nét sinh hoạt ấy vẫn được lưu giữ và tồn tại cho đến mãi về sau. Đất Nước cũng được từ hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung mà khởi nguồn chính là mối quan hệ nên vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm sử dụn thuần thục nhiều câu ca dao như: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước đã được bắt nguồn từ những điều tưởng như giản dị mà hết sức thiêng liêng và cao quý.

Tiếp tục mạch cảm hứng đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Hai từ Đất nước chẳng phải xa lạ ở bất cứ đâu mà nó tồn tại ngay trong không gian sinh hoạt của xóm làng, thôn quê. Nhà thơ đã sử dụng những từ hoa mỹ, xa vời mà làm sáng tỏ bằng những ngôn ngữ bình dị. Đó là nơi đến trường, nơi tắm, nơi hò hẹn ,và nơi nhớ nhung. Và để đó làm sâu sắc thêm khái niệm, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng tỏ khái niệm ấy từ quá khứ lịch sử: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ đồng bào chúng ta trong bọc trứng”. Bằng cách lý giải sâu sắc trên hai phương diện lịch sử và địa lý, nhà thơ đã dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm của Đất Nước. Đồng thời, để Đất nước trở nên nguyên vẹn, hoàn chỉnh, cần có sự góp sức cùng xây dựng và bảo vệ đất nước. Do đó, Nguyễn Khoa Điềm chẳng định vao trò quan trọng của mỗi người trong cuộc sống đối với Đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu nhau và chỉ sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần những người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ đến ngày giỗ tổ”. Ông cha ta trải qua ngàn năm lịch sử hy sinh để bảo vệ sự bình yên, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc với  quyết tâm “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Lời thơ nhắc nhở con cháu sau này phải tiếp tụ giữ vững, bảo vệ thành quả của ông cha ta, mỗi thế hệ con cháu sau này có vai trò vô cùng to lớn trong việc gìn giữ và xây dựng quê hương, đất nước.

“Trong anh em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”

Đất nước có thể tồn tại và phát triển như ngày hôm nay nhờ vào tình yêu to lớn được bắt nguồn từ tình yêu gia đình, tình yêu đôi lứa. Sự hòa hợp giữa cái chung cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì đã tạo thành một tập thể to lớn, vẹn tròn. Và từ đó nhà thơ cũng nêu lên vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ sau này đối với đất nước là : “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời” bởi vì:

Những người vợ nhớ chồng còn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dân nào đã góp nên những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được Nguyễn Khoa Điểm nhắc đến trong bài thơ. Mỗi địa danh ấy lại gắn liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn đời cho bao thế hệ mai sau. Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra một kết luận: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông của ta”.

Để xây dựng nên một nhà nước hoàn hảo thì chắc chắn rằng nó không thể được tạo lên từ một cá nhân cụ thể mà từng nét văn hóa, lịch sử của dân tộc phải được xây dựng từ nhiều cá thể, cộng đồng tập hợp lại qua từng thời kỳ khác nhay. Vậy đó là ai và là tất cả ở đây là những người nào?

Để làm nên đất nước luôn chắc chắn không thể là một cá nhân có thể kiến tạo của nền văn hóa, truyền thống, lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là tất cả những người nào?

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Quả đúng, câu trả lời cho câu hỏi là ai thì tác giả đã trả lời một cách trầm lặng đó là một người hay nhiều người vô danh, họ là những người con gái con trai, họ“đã sống chết” “giản dị và bình tâm” họ đã mang tên làng tên xã, mang lại phong tục tập quán truyền lại, bảo lưu cho các thế hệ mai sau tiếp tục gìn giữ và phát huy và  Chính họ là những người cũng đã làm nên Đất nước như ngày hôm nay. Với biện pháp liệt kê và điệp là “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại cho con cháu những giá trị vật với chất tinh thần cao quý nhất. Và điều họ hướng đến đó chính là:

Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân

Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Đến đây Nguyễn Khoa Điềm cũng đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tư tưởng của mình về đất nước nhân dân. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước là trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ là văn hóa dân gian” khởi nguồn từ truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân nước ta. Đồng thời đây cũng là nơi làm nên và khơi dậy nên truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Bài thơ kết thúc bằng những tiếng hát tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng đến khắp các vùng sông núi Việt Nam. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy một niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ đối sự với nét đẹp truyền thống văn hóa ngàn đời của thế hệ đi trước để lại cho chúng ta.

Đất Nước là một bài thơ giàu suy tư và triết lý, thể hiện ý niệm rất riêng, rất mới mẻ và đầy đủ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại đã được mở rộng thêm tri thức, có thêm cái nhìn toàn diện hơn về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó cũng càng thêm và yêu mến, tự hào với nơi mình đã được sinh ra và lớn lên với bề dày lịch sử

    Ngoài những thông tin về chủ đề Phan Tich Bai Dat Nuoc này bạn có thể xem thêm nhiều bài viết liên quan đến Thông tin học phí khác tại đây nhé.

    Vậy là chúng tôi đã cập nhật những thông tin hot nhất, được đánh giá cao nhất về Phan Tich Bai Dat Nuoc trong thời gian qua, hy vọng những thông tin này hữu ích cho bạn.

    Cảm ơn bạn đã ghé thăm. Hãy thường xuyên truy cập chuyên mục Thông tin sự kiện để update thêm nhé! Hãy like, share, comment bên dưới để chúng tôi biết được bạn đang cần gì nhé!

    Related Articles

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    Back to top button